Vũ Dương Thúy
Ngà
Hồ Chủ tịch - một danh nhân văn hóa, người anh hùng giải phóng dân
tộc, nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận cách mạng lỗi lạc của nhân dân Việt Nam .
Trong vô vàn các yếu tố tạo nên phong cách diện mạo Hồ Chí Minh, không thể
không đề cập đến một giác độ: một con người ham đọc sách và luôn quan tâm đến
việc đọc của nhân dân.
Trong
bài nói chuyện tại hội nghị chuyên đề sinh viên quốc tế họp tại Việt Nam
ngày 01 tháng 09 năm 1961, Hồ Chủ tịch đã tâm sự: “Về văn hóa tôi chỉ học
hết tiểu học. Về hiểu biết phổ thông: 17 tuổi tôi mới nhìn thấy ngọn đèn điện
lần đầu tiên, 20 tuổi mới nghe rađio lần đầu”. Vậy mà Người đã có một trí
tuệ phi thường, một sự hiểu biết đáng khâm phục, như nhà nghiên cứu Vasiliep đã
nhận xét: “Hiếm có chính khách nào của thế kỷ XX có thể sánh được với Hồ Chí
Minh về trình độ học vấn, tầm hiểu biết rộng lớn và sự thông minh trong cuộc
đời”(1).
Đạt được tầm hiểu biết ấy là nhờ Hồ Chủ tịch đã không ngừng tự học
và đọc sách báo. Khi nói chuyện với các đảng viên hoạt động lâu năm (Vào ngày 09
tháng 12 năm 1961), Hồ Chủ tịch đã tâm sự: “Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải
học... Không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau”.
Và với Bác, nguyên lý và phương thức học được tóm gọn trong mấy câu sau: “Học ở trường, học trong sách vở, học lẫn
nhau và học dân”(2).
Vì thế, khi xây dựng đường lối cách mạng ngay trong lúc khó khăn nhất, Hồ Chủ tịch
đã chú ý đến việc hình thành thư viện cho những người lao động. Thể hiện sự
quan tâm ấy, trong cuốn “Đường cách mệnh” phần “Cách tổ chức
công hội” khi nêu ra lý do vì sao các hội viên phải đóng lệ phí Bác đã nêu
ra bảy điểm sẽ làm trong đó điểm thứ ba là lập nơi xem sách báo cho công nhân
được đặt bên cạnh việc lập trường học và lập nhà thương cho công nhân cùng con
em công nhân. Điều đó chứng tỏ ngay từ khi chưa giành được chính quyền Hồ Chủ
tịch đã rất chú trọng đến công tác thư viện và việc phục vụ nhu cầu đọc sách
báo, một nhu cầu thiết yếu của con người được đặt cùng với nhu cầu được học tập
và nhu cầu được chữa bệnh khi đau ốm. Điều đó cũng thể hiện sự quan tâm rất
thiết thực của Bác Hồ đối với người lao động nói riêng và nhân dân nói chung.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin điểm một vài nét về
phương pháp đọc sách báo của Bác Hồ, qua đó chúng tôi cũng phân tích và nêu lên
vai trò của sách báo đối với việc tự học của Bác Hồ.
Kế thừa truyền thống ham đọc sách của dân tộc và gia đình, Hồ Chủ
tịch đã luôn coi trọng sách báo. Nhưng với Người, đọc sách không chỉ đơn thuần
là để giải trí hay để giải quyết các công việc sự vụ, nâng cao các hiểu biết
thông thường. Người đọc chủ yếu là để phục vụ cách mạng với niềm khao khát tột
bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Niềm ham muốn khao
khát ấy đã đi theo Bác suốt cuộc đời, chi phối mọi hoạt động của Người.
Sinh ra trong cảnh nước mất, lớn lên chứng kiến nỗi bế tắc của bao
tầng lớp sĩ phu yêu nước và nỗi thống khổ của nhân dân. Chính Phan Bội Châu
cũng phải than rằng:
“Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si”
(Nghĩa là: Non sông mất rồi sống càng thêm nhục. Sách thánh hiền
tẻ ngắt càng đọc càng thêm mụ mẫm).
Mặc
dầu vậy, Bác Hồ vẫn miệt mài đọc sách. Và không chỉ đọc sách bằng chữ quốc ngữ,
sách Hán mà Người còn đọc cả sách Pháp. Với Người, sách chính là “thuốc chữa
tội ngu” và là một trong những nguồn quan trọng có thể đưa ra lời giải đáp
cho câu hỏi tự do, bình đẳng, bác ái là gì? Từ những thắc mắc đầu tiên ấy về
sau cũng chính nhờ sách báo Bác đã tìm ra con đường cứu nước, cứu dân và hình
ảnh “Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin”
đã đi vào lịch sử.
Khi
tìm hiểu về phương pháp đọc của Bác Hồ, bài học đầu tiên mà chúng ta cần phải
chú ý đến là: Muốn trở thành người hiểu biết phải đọc cho rộng và khi đọc phải
có ghi chép và phân loại ngay các thông tin trong sách báo. Là một người ham
hiểu biết Người đã say mê đọc sách ngay từ ngày còn là một cậu trò nhỏ. Và cũng
ngay từ khi tuổi trẻ Người đã có một phương pháp đọc rất đáng chú ý: Người
thường đánh dấu vào những chỗ đọc thấy cần thiết. Trong “Búp sen xanh”
Sơn Tùng đã ghi lại lời tâm sự của cậu ấm Phạm Gia Cần, một người bạn của Hồ
Chủ tịch thuở thiếu thời: “Ở gần Thành, mình học hỏi được nhiều thứ, nhất là
cách đọc sách.”(3)
Do ý thức không muốn mất thời gian đọc đi đọc lại để nhặt thông
tin, nên khi đọc nghiên cứu tài liệu Hồ Chủ tịch luôn chú trọng đến việc ghi
chép, đánh dấu, gạch chân, đóng khung và thậm chí cắt dán. Với cường độ đọc
cao, một ngày khoảng trên hai chục tờ báo trong và ngoài nước nếu không có
những biện pháp đọc khoa học thì khó có thể nhớ và tổng hợp hết được các vấn đề
và thông tin đã đọc. Theo tài liệu của Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương,
Bác đã từng căn dặn: “Những cái gì đã nghe, đã thấy, đã hỏi được, đã đọc
được thì chép lấy để dùng để viết”. Không có ghi chép cẩn thận thì những
khi cần sẽ phải mất nhiều thời gian để tìm kiếm lại.
Lênin có tác phẩm “Bút ký triết học” nổi tiếng.
Trong đó ghi lại những nhận xét và đánh giá của ông về các trào lưu tư tưởng
triết học của các tác gia trên thế giới. Hồ Chủ tịch của chúng ta có “Bút
ký đọc sách” trong đó ghi lại những ý chính của các cuốn sách Bác đã
đọc cùng với những nhận xét đánh giá của mình. Với Hồ Chủ tịch, đọc sách không
chỉ cho riêng bản thân mình mà Người luôn quan tâm đến đối tượng thích hợp liên
quan đến các bài viết hoặc thông tin được đăng trong sách báo. Trong “Nhật
ký hành trình của Hồ Chủ tịch”, Người đã viết: “Mỗi ngày, Cụ xem
chừng 25 tờ báo. Báo sáng, báo chiều, báo hàng tuần, báo ngoại quốc. Báo có gì
hay, Cụ lấy bút chì đỏ làm dấu vào, rồi bảo anh em xem”.
Theo Người, bất luận làm công việc gì cũng cần phải đọc sách.
Người mới học chữ cần đọc để không mù lại, người làm công an cần đọc để nắm
tình hình. Những người làm công việc chuyên môn cần phải đọc để nâng cao trình
độ. Người làm quản lý lãnh đạo cần phải đọc để quản lý, lãnh đạo tốt hơn. Làm
nhà báo, nhà văn lại càng phải đọc. Không chỉ đơn thuần “Cần phải xem báo
Đảng”(4), Người
khuyên chúng ta: “Muốn có nhiều tài liệu phải xem cho rộng... Xem được nhiều
thứ báo chừng nào thì lấy được nhiều tài liệu chừng ấy”(5). Và Người còn nói thêm: “Tìm tài liệu cũng giống như
công tác khác, phải chịu khó. Có khi xem tờ báo này có vấn đề này, xem tờ báo
khác có vấn đề khác, rồi ghép hai ba vấn đề, hai ba con số làm thành tài liệu
mà viết”(6).
Không chỉ dừng lại việc đọc rộng và biết cách ghi chép, đánh dấu,
bài học thứ hai có thể rút ra trong phương pháp đọc sách báo của Hồ Chủ tịch là
đọc luôn phải có suy nghĩ kỹ càng không nhất thời hồ đồ tin ngay theo sách.
Người đã từng nhấn mạnh: “Phải nêu
cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu
hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu trong sách. Có vấn đề thông suốt
thì mạnh dạn đề ra cho vỡ lẽ, đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt ra câu hỏi:
“vì sao” đều phải suy nghĩ kỹ càng, xem nó có hợp với thực tế hay không, tuyệt
đối không nên nhắm mắt tuân theo một cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ cho chín
chắn.”(7)
Với những sách báo quan trọng, có những từ hoặc vấn đề không hiểu
Người có thể đọc đi đọc lại nhiều lần cho đến khi hiểu cặn kẽ mới thôi. Ví dụ
điển hình nhất cho nguyên lý này là việc Bác Hồ đọc tác phẩm “Tư bản luận”
của Mác và “Luận
cương” của Lênin. Chính
nhờ việc đọc sâu hiểu kỹ Người đã có thể đem những điều đã đọc vào áp dụng
trong thực tiễn cách mạng Việt Nam .
Đọc sách báo là một công việc nhiều người có thể làm được, nhưng đọc để hiểu
được cái thần của sách, đánh giá được những ưu điểm và hạn chế của sách báo thì
không phải ai cũng làm được. Muốn làm được điều đó đòi hỏi người đọc phải có sự
hiểu biết rộng và khả năng phân tích tổng hợp tốt. Vì lẽ đó chúng ta không ngạc
nhiên khi nghe ông Giăng Pho, một người bạn Pháp của Bác Hồ nhận xét: “Chữ
Pháp thì tôi biết nhiều hơn anh Nguyễn, điều đó không có gì là lạ vì tôi là
người Pháp. Nhưng xem sách lý luận bằng chữ Pháp, nhiều khi tôi phải nhờ anh
Nguyễn cắt nghĩa dùm”.
Sinh thời Người rất không tán thành lối đọc để mà đọc, không hiểu
biết thực sự những điều đã đọc và theo Người đó là dạng đọc phù phiếm. Trong
cuốn “Về vấn đề học tập” trang 58 đã nêu một ý kiến rất xác đáng
của Bác: “Có đồng chí thuộc lòng một số sách vở về chủ nghĩa Mác - Lênin. Họ
tự cho mình là người hiểu biết chủ nghĩa Mác - Lênin hơn ai hết. Song khi gặp
việc thực tế, thì họ hoặc máy móc, hoặc là lúng túng. Lời nói và việc làm của
họ không nhất trí. Họ học sách vở Mác - Lênin. Học để trang sức chứ không phải
để vận dụng vào công việc cách mạng”.
Bài
học thứ ba và cũng là bài học quan trọng nhất trong phương pháp đọc của Hồ Chủ
tịch là vấn đề áp dụng những điều đã đọc được vào thực tiễn cách mạng, thực
tiễn cuộc sống. Tiếp thu quan điểm của Nguyễn Trãi: “Sửa mình lấy thiện làm
vui. Lập thân đâu phải cứ ngồi đọc suông” và tán thành quan niệm của Lê Quý
Đôn: “Đọc sách không cần nhiều, đọc
được một chữ đem áp dụng được một chữ, thế là được”, Hồ Chủ tịch
luôn rất chú trọng đem ứng dụng các điều đã thu lượm được qua sách báo. Người
đã từng nói: “Siêng xem sách và xem được nhiều sách là quý” nhưng Người đã nhấn mạnh: “Dù
xem được hàng ngàn quyển lý luận nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào
cái hòm đựng sách”. Nếu như trong học tập Hồ Chủ tịch luôn nhấn mạnh
đến chữ hành thì trong đọc sách Người luôn quan tâm đến vấn đề áp dụng. Và phải
biết áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh của thực tiễn. Người rất ghét lối
đọc chỉ để mà đọc, với Người đó là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Và sự vận
dụng tài tình những điều đã học và đã đọc chính là một trong những điểm mấu
chốt trong vấn đề đọc sách của Bác Hồ. Trong cuốn con đường dẫn tôi đến chủ
nghĩa Mác - Lênin trang 110, Người đã viết: “Chính là do cố gắng vận dụng
những lời dạy của Lênin nhưng vận dụng một cách có sáng tạo, phù hợp với thực
tế Việt Nam ngày nay, mà chúng ta đã chiến đấu và giành được thắng lợi như các
đồng chí đã biết”.
Khi bàn về “Bản sắc văn hóa Việt Nam” ông Phan Ngọc
đã nêu ra một nhận định rất xác đáng “truyền thống văn hóa Việt Nam là truyền
thống vượt gộp”. “Vượt gộp có nghĩa là tiếp thu cái mới nhưng đổi mới được
nó trên cơ sở cái cũ cũng đã được đổi mới cho thích hợp với hoàn cảnh mới”(8). Và cũng theo Phan Ngọc,
bên cạnh Nguyễn Trãi, Hồ Chủ tịch là người đã thực hiện thành công nhất nguyên
lý đó. Từ những tinh hoa văn hóa văn minh của nhân loại tiếp thu qua sách báo,
từ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và đặc điểm thực tiễn cách
mạng của Việt Nam, Hồ Chủ tịch đã biết “vượt gộp” để đưa dân tộc Việt
Nam thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than, ngẩng mặt lên kiêu hãnh làm người.
Xã hội loài người phát triển được một phần lớn là nhờ con người có
khả năng học tập lẫn nhau cộng hưởng các sức mạnh cá nhân tạo nên sức mạnh to
lớn của cộng đồng. Sách báo sẽ là một nguồn tài nguyên vô giá giúp cho con
người học tập và không ngừng vươn lên để tự hoàn thiện mình. Bài học tự học qua
sách báo của Hồ Chủ tịch sẽ mãi là tấm gương sáng cho mỗi người chúng ta học
tập và noi theo. Và một lần nữa chúng ta lại có thêm một minh chứng của việc “đọc
sách, mắt như đèn muôn dặm” (như lời Cao Bá Quát xưa từng nói). Ánh sáng từ
đôi mắt ấy mãi mãi sẽ là ngọn đèn soi rọi trên con đường dân tộc chúng ta đi.
Trong tiến trình khôi phục và chấn hưng văn hóa đọc hôm nay, việc
tìm hiểu và học hỏi những quan điểm của Hồ Chủ tịch về vấn đề đọc sách có một ý
nghĩa quan trọng, điều đó sẽ giúp cho chúng ta có được những định hướng quan
trọng trong việc xây dựng chiến lược phát
triển văn hóa đọc trong cộng đồng của đất nước.
Tài
liệu trích dẫn:
(1) Về
cách mạng Việt Nam
và Chủ tịch Hồ Chí Minh.-H.: Ủy ban khoa học xã hội, 1990
(2) Hồ Chí Minh. Phát huy tinh thần cầu học
cầu tiến bộ.-H.: Sự thật, 1960.- Tr 14
(3) Sơn Tùng. Búp sen xanh.-H.: Kim Đồng,
2000.- Tr 176
(4) Tên một bài báo Hồ Chủ tịch viết năm 1954
(5) Những lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch. Tập
6.- Tr 72
(6) Chúng ta có Bác Hồ.-H.: Lao động, 1990.-Tr
46
(7) Hồ Chí Minh. Về vấn đề học tập.-H.: Sự
thật, 1971.- Tr 53
(8) Phan Ngọc. Bản sắc văn hóa
Việt Nam.- H.: Văn hóa thông tin, 1998.- Tr 28