PGS.TS. Phạm Lan Hương
Trong tình hình còn nhiều bất cập của
nền giáo dục Việt Nam hiện nay, nhiều phụ huynh cũng như những nhà giáo dục (sau
đây gọi tắt là GD) tâm huyết đang mong muốn tìm những tấm gương để góp
phần học tập, cải thiện nền GD nước nhà. Nhìn ra năm châu, bốn
biển, ông bà ta thường có câu “Biết mình, biết người trăm trận đánh, trăm trận thắng”. Có lẽ đọc và
nghiên cứu các sách về giáo dục so sánh (sau đây gọi tắt là GDSS) có thể
giúp chúng ta phần nào đó thỏa mãn yêu cầu. Vậy GDSS là gì? Tại sao lại phải nghiên cứu GDSS?
Trong nội dung hạn hẹp của bài viết ngắn này chúng tôi xin giới thiệu sơ qua
vài nét về GDSS.
Ta đều biết là GD đã có từ
rất lâu đời. Cuộc sống lao động phát triển đã đưa con người xích lại gần nhau. Đến
ngày nay GD đã trở thành kho kiến thức và kinh nghiệm khổng lồ. Mỗi dân tộc, mỗi
nhà GD đều tự hỏi, nền GD nước mình đã tốt chưa, còn những nền GD khác ra sao.
Lòng khao khát hiểu biết, khao khát vươn lên khiến con người tìm đến nhau học hỏi
rút kinh nghiệm và dần dần những kiến thức
đó được hệ thống hóa, phân loại, so sánh. Nó trở thành một khoa học. Nó tìm ra những điểm giống nhau, khác nhau, những
điểm mạnh, điểm yếu, giúp mọi người phân tích chọn lọc và ứng dụng cho nền
GD của nước mình. Trong quá trình phát triển, GDSS được nhiều nhà GD nghiên cứu.
Lúc đầu chỉ mới là những tác phẩm giới thiệu
các nền GD của các nước khác nhau nhằm tăng cường hiểu biết và cộng tác cùng nhau. Dần dần GDSS đã tiến tới
thống kê các dữ liệu, giải thích nó theo những
yếu tố tự thân và ảnh hưởng khác nhau, tìm nguyên nhân rồi phân loại, chọn
lựa và so sánh. Từ đó đánh giá và rút ra những
bài học bổ ích. Trên cơ sở các nghiên cứu này, các nhà lãnh đạo GD thế giới
đã lập ra những hiệp hội, tổ chức GD quốc tế
(UNESCO), các tiêu chuẩn GD quốc tế.
Nghiên cứu GDSS đã tạo nên ngọn đuốc soi đường cho các nền GD trên thế
giới nhất là ở những nước còn đang phát triển.
Mục đích chung của các tác phẩm
nghiên cứu về GDSS là gì?
- Mở rộng tầm hiểu biết về các nền
GD khác trên thế giới, đồng thời biết được những xu hướng GD toàn cầu
hiện nay.
- Phát triển kiến thức, các lý thuyết và nguyên tắc về
GD nói chung và mối quan hệ giữa GD với Xã hội.
- Hiểu biết
về hợp tác quốc tế và giải quyết các vấn đề GD cùng các vấn đề khác liên quan
mang tính quốc tế.
- Tham gia
vào công tác cải tiến hoặc cải cách GD trong và ngoài nước.
Ở Việt Nam, nghiên cứu GDSS để làm gì?
1. Đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế
của Việt Nam
Việt
Nam ngày nay đã gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO. Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng đã ký hiệp định GATS coi GD là một
trong 12 dịch vụ mà Việt Nam cam kết
mở cửa. Hội nhập quốc tế đã mở cho Việt Nam vô vàn cơ hội và thách thức.
Để đạt được điều này, cải cách GD đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội.
Trên
các phương tiện truyền thông cũng như nhiều cuộc hội thảo khác nhau, nhiều cuộc tranh luận đang nổ ra với rất nhiều câu
hỏi nhưng các đáp án dường như vẫn còn lơ lửng. Nền GD của chúng ta đang
ở đâu, chúng ta nên đi theo mô hình GD nào.
Các vấn đề đặt ra khiến các nhà quản lý GD bối rối. Nhiều đoàn tham quan
khảo nghiệm về đã đưa ra nhiều tấm gương điển
hình và những kinh nghiệm quý giá. Một
số người cũng thường nêu ý kiến: ở nước ngoài người ta làm thế này hay thế kia.
Nhưng đôi khi chưa giải thích rõ nước ngoài
đó là nước nào, các điều kiện văn hóa, lịch sử kinh tế, chính trị có
tương đồng với nước ta không. Liệu áp dụng những kinh nghiệm của họ có phát huy hiệu quả ở Việt Nam hay không. Vậy là trước
khi hoạch định những phương án mới cho
GD, trước khi đề ra một chính sách, các nhà GD không thể chỉ lắng nghe một
vài ý kiến mà phải nghiên cứu thực sự các nền
GD trên thế giới trong những biến động thăng trầm, có gắn với các điều kiện
ngoại biên, các điều kiện xã hội cụ thể để trước hết hiểu rõ người ta và chọn một
mô hình nào đó hoặc cải tiến nó, khả dĩ thích hợp cho nền GD nước nhà.
2. Góp phần đổi mới tư duy, phương pháp
giảng dạy và học tập
Dường như cả thế giới đang thay đổi phương pháp GD. Các
tiến bộ của xã hội đòi hỏi con
người phải có các khả năng mới như học để giải quyết vấn đề, làm việc theo nhóm đặc biệt là khả năng ứng xử tình huống trong một
xã hội thay đổi. Nhiều vấn đề mà hệ thống GD cổ điển không đáp ứng được, đòi hỏi
việc tổ hợp của những tri thức mới, những kỹ
năng mới và cả thái độ. Tiến bộ xã hội gây sức ép buộc hệ thống GD phải
thay đổi để có thể cung cấp những con người phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện
đại. Mục đích GD, yêu cầu đối với GD và cách đánh giá GD cũng thay đổi. Tuy nhiên, ở Việt Nam, mặc dù xã hội đang chuyển đổi từ
cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường
với những thay đổi vùn vụt, nhưng nền GD dường như vẫn chưa tương thích. Các tổng kết cho thấy nền GD
của chúng ta vẫn đang phát triển, nhưng thách thức và trông đợi của xã hội
thì lớn hơn rất nhiều. Ba mươi năm chiến
tranh và cơ chế kiểu cũ để lại nhiều dị biệt với thế giới mà chúng ta cần san bằng. Nghiên cứu GDSS, chúng ta nhận thức được
cần thay đổi phương pháp GD. Nói cách khác là chúng ta so sánh với các nền
GD khác để làm sáng tỏ những điều cần học tập, để không bao giờ bảo thủ. Soi
sáng các nền GD khác để tìm ra những bước đi cụ thể trong muôn vàn lúng túng hiện
nay.
3. Trang bị thêm tri thức và kỹ năng cho
giáo viên, sinh viên
Nhà
trường sẽ đào tạo những sinh viên như thế nào để đáp ứng với nhu cầu của xã hội, một xã hội đang biến động từng ngày theo
cùng bước với nền kinh tế thị trường. Suy tư về GD cần tập trung chủ yếu
vào mục đích và cứu cánh của nó. Edgar Morin
từng chia sẻ về mục đích cuối cùng của GD là “đào tạo những con người đủ
năng lực tổ chức các tri thức, chứ không phải tích lũy các hiểu biết theo kiểu
chất đầy vào kho”. Thế giới ngày nay đầy biến động và ngày càng phức tạp hơn
cho nên việc học không chỉ là thường xuyên tích lũy tri thức mà cần biết kết hợp
giữa phân tích với hệ thống hóa, cho phép
liên kết các tri thức trong một bộ khung quy chiếu rộng lớn hơn, tạo điều
kiện cho thao tác, phân tích và logíc. Điều đó không phù hợp với nhận thức và thực tại đa chiều và các vấn đề toàn cầu,
siêu quốc gia.
Trên thế giới đang có nhiều ý kiến đề xuất về việc “tiến
hành một cuộc cách mạng trong việc tổ chức tri thức”. Nội
dung của cuộc cải cách này chính là thay thế phương thức tư duy cổ điển mang nặng
tính cơ giới bằng tư duy hệ thống, tư duy phức
hợp (Jacques Ardoino). Điều này càng khẳng định sự cần thiết phải nghiên cứu
GDSS trong ngành GD, nhất là ở trường đại học. Giáo sư Serge Gruzinsky chuyên
nghiên cứu về xã hội châu Mỹ còn nhắc nhở: “Khi nghiên cứu so sánh cần chú ý đến các sự kiện, sự rẽ nhánh, các sự cố
và ngẫu nhiên trong lịch sử phát triển, vượt ra những cách lý giải quen
thuộc mang tính tất định”.
Một vài khía cạnh về thực tiễn ứng dụng
GDSS ở Việt Nam hiện nay
Thực
ra, GDSS dù chưa phải là một bộ môn chính thức được tuyên truyền nhiều ở Việt
Nam, nhưng ít nhiều cũng đã len lỏi vào cuộc sống và tác nghiệp của các nhà GD.
Nhờ chính sách mở cửa của Đảng và nhà nước, cánh cửa GD cũng đã dần hé mở ngay từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế
kỷ XX. Chỉ nhìn ra nước ngoài, các
nhà lãnh đạo GD Việt Nam mới thấy hết được chúng ta đang đứng trước nguy cơ
tụt hậu rất cận kề. Càng ngày sự thay đổi nhận thức càng trở nên rõ nét. Sau rất
nhiều lần hội thảo về đổi mới GD, so sánh với các nền GD bạn, Việt Nam đã có những
thay đổi đáng kể, đặc biệt trong ngành GD đại học. Đó chính là nội dung các giáo trình ngày càng hiện đại hơn. Dù còn loay
hoay nhưng một bộ phận các thầy đang tìm cách hướng dẫn SV áp lý thuyết
vào thực tế cuộc sống. Phương pháp giảng dạy ngày càng đa dạng, tin học hóa
ngày càng phổ biến. Nhiều giáo viên tìm cách
thay đổi phương pháp theo hướng lấy người học làm trung tâm. Cách đánh
giá chất lượng cũng đang từng bước thay đổi, tiêu chuẩn chất lượng bước đầu được Bộ Giáo dục và Đào tạo thiết lập và
đang có nhiều hy vọng áp dụng đại trà
trong những niên khóa tới. Nhờ học tập kinh nghiệm bạn bè mà Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã đề nghị được Quốc hội thông qua việc giảm thiểu tiến tới xóa bỏ
nhiều kỳ thi hao tiền, tốn của và gây nhiều căng thẳng cho xã hội. Về quản lý
GD, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như các cơ sở
cũng có những chuyển biến bước đầu. Dù còn ít ỏi so với thế giới nhưng
những kết quả ban đầu cũng là những tín hiệu đáng mừng.
Khi so sánh các phương pháp quản lý GD, có nước theo kiểu
trung ương tập quyền, có nước lại theo kiểu phân quyền
tùy thuộc điều kiện kinh tế, điạ lý, chính trị của từng nước. Tuy nhiên phương
pháp quản lý nào thì cũng phải đạt được mục tiêu đào tạo ra những con người vừa
có đạo đức, vừa có kiến thức. Đất nước ta với một dải dài hình chữ S hình thành
nên những vùng đất khác nhau, với 54 dân tộc khác
nhau, trình độ hiểu biết khác nhau. Cơ sở hạ tầng như vậy không thể cùng lúc
tạo nên những con người giống nhau. Với một chính sách, một chương trình thống nhất toàn quốc đã gây khó khăn cho rất nhiều
vùng miền, đồng thời lại hạn chế năng
lực của một nhóm người khác, của một vùng khác. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân thúc ép, hình thành bệnh thành
tích hay thực chất là giả dối tại không ít đơn vị GD. Nếu nghiên cứu kỹ
các nền GD tiên tiến như ở Anh, Mỹ, Đức với một phổ rộng của những vùng địa lý
khác nhau, nhiều dân tộc khác nhau, chúng ta sẽ học được nhiều điều thú vị về
các cách quản lý này.
Một trường hợp khác được coi là vô cùng quan trọng trong
nghề giáo đó là đội ngũ giáo viên. Cha ông ta từng đưa ra chân lý “không thầy đố mày làm nên”,
nhưng phải làm sao để có một đội ngũ giáo viên đạt chất lượng cao thì vẫn
còn là vấn đề. Soi lại với nhiều nền GD bạn bè, ta mới thấy cách làm của ta còn
quá phiến diện. Ví dụ ở ta chỉ cần có bằng đại học sư phạm hay cao đẳng thậm
chí thấp hơn là có thể bước chân vào đội ngũ giáo viên của một trường nào đó
nhưng ở Đức, tốt nghiệp đại học vẫn chưa phải
là giáo viên. Họ cần có thêm 2 năm thực tập tại trường phổ thông theo một chương trình cụ thể vừa dạy, vừa học, vừa
nghiên cứu, có thầy hướng dẫn và chịu
sự giám sát nghiêm ngặt của Trung tâm quản lý giáo sinh. Sau đó giáo
sinh lại phải viết báo cáo, tham gia một kỳ thi vấn đáp ở trường và một kỳ thi quốc gia nữa mới đuợc công nhận là giáo
viên. Hầu hết các nước đều coi giáo
viên là một nghề phải đi học suốt đời, yêu cầu chất lượng rất khắt khe nhưng được nhà nước, nhân dân quan tâm và đãi ngộ
hợp lý. Đội ngũ giáo viên giỏi và yêu nghề là động lực thúc đẩy ngành sư
phạm phát triển.
Hiện
nay sách về GDSS tiếng Việt còn rất hiếm hoi (Phạm Lan Hương, 2006, Giáo dục quốc
tế - Tư liệu và so sánh, NXB Đại học Quốc gia Tp. HCM; Nguyễn Tiến
Đạt, 2007, Giáo dục so sánh, NXB Giáo dục), các bạn quan tâm có thể tìm
hiểu 1 số sách về GDSS của nước ngoài đang có ở Việt Nam như:
- Philip
Altbach (1998), Comparative Higher
Education: Knowledge, the University and Development, Comparative
Education Research
Center of the University of Hong Kong.
- Patricia
K. Kubow and Paul R. Fossum(2003),
Comparative Education: Exploring Issues in International Context, Upper Saddle River, New Jersey
Columbus, Ohio.
- Y.K.Sharma
(2004), Comparative Education:
Acomparative study of Education Systems, Kanishka Publishers, distributors, New Delhi 110002.
- Karen
Mundy, Kathy Bickmore, Ruth Hayhoe, Meggan Madden, Katherine Madjidi (2008)
Comparative and International Education, CSPI Canadian Scholars’ Press Inc. Toronto.
Hy vọng trong tương lai chúng ta có thể biên dịch hoặc xuất
bản thêm nhiều sách GDSS bằng tiếng Việt để đông đảo bạn đọc có thể tham khảo,
nghiên cứu.
Thế giới
đã trải qua những bước đi dài trong quá trình phát triển của GDSS. Việt Nam chúng ta mới chỉ bắt đầu. Tuy
nhiên nếu chú tâm học tập, thừa kế tri thức của những người đi trước, chúng ta sẽ không cần đi lại từng
bước hay từ những bước đầu tiên mà có thể bước
ngay vào giai đọan hiện đại nhất của lĩnh vực khoa học này. Nói cách
khác chúng ta có thể “đứng trên đôi chân của những người khổng lồ” bằng chính trái tim và khát vọng đổi mới GD của người Việt
Nam./.
TP. Hồ Chí Minh, 03/2012
P.L.H.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét