Vài nét về hệ thống thư viện trường học Việt Nam

ThS. Lê Thị Chinh
Nhà Xuất bản Giáo dục

I. Vai trò của thư viện trường học

Là một trong những yếu tố cấu thành chất lượng giáo dục, thư viện trường học là một bộ phận không thể thiếu được trong việc hình thành môi trường văn hóa học đường. Nó sẽ là khơi nguồn và thỏa mãn những nhu cầu về thông tin, tri thức của thầy cô giáo và học sinh. Hơn thế nữa thư viện trường học còn là trung tâm thông tin văn hóa của cộng đồng.

Thư viện trường học là một bộ phận cơ sở trọng yếu, là trung tâm sinh hoạt văn hóa, khoa học của nhà trường. Thư viện trường học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh, xây dựng thói quen tự học cho học sinh. Mặt khác, thư viện trường học còn tạo cơ sở từng bước thay đổi phương pháp dạy và học, xây dựng nếp sống văn hóa cho các thành viên trong nhà trường.

Thư viện trường học giúp học sinh tự bổ sung kiến thức. Cũng chính ở thư viện các em tự rèn luyện tính độc lập, tư duy và thói quen tự học. Qua các tác phẩm mà các em đã đọc sẽ hình thành cho các em tình cảm đúng đắn, giúp các em hiểu biết thêm về con người, về đất nước, về cuộc sống.

Được tiếp xúc với sách, các em học sinh được tiếp cận với trí tuệ, công sức của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu, văn hóa, nghệ thuật, giáo dục. Qua đó, hình thành ở các em đức khiêm tốn, thấy được ý nghĩa to lớn của lao động trí óc, sự kiên nhẫn và cần cù của nhiều thế hệ trong và ngoài nước. Chính điều này sẽ dần hình thành cho các em chí hướng phấn đấu để đạt được ước mơ trong cuộc đời mình.

Đối với các thầy giáo, cô giáo thì thư viện trường học càng có vị trí quan trọng. Đây là nơi lưu giữ, cung cấp, bổ sung, cập nhật kiến thức để cho những bài giảng thêm phong phú, sinh động, giúp các thầy, cô giáo tiếp cận với những phương pháp giảng dạy tiên tiến.

Các thầy, cô giáo sử dụng những tri thức từ sách báo để hướng dẫn học sinh bổ sung những kiến thức mà mình chưa có điều kiện để trình bày hết ở trên lớp. Đây chính là con đường tốt nhất để nâng cao hiệu quả dạy và học. Qua những buổi sinh hoạt của thư viện, tình cảm giữa thầy và trò thêm gắn bó, không khí trường học trở nên sôi nổi, sống động.

Với vị trí quan trọng của thư viện trường học, trong những năm qua Đảng và Nhà nước và đặc biệt Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có sự quan tâm đối với công tác thư viện trường học. Ngày 11/01/2001 Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ký lệnh công bố Pháp lệnh thư viện. Ngày 02/01/2003, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quyết định số 01 về Tiêu chuẩn thư viện trường phổ thông.

Các thư viện trường học có những nhiệm vụ sau:

1.   Cung cấp cho giáo viên và học sinh đầy đủ các loại sách giáo khoa, sách tham khảo, sách nghiệp vụ và các loại tài liệu khác nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập nhà trường.
2.  Sưu tầm và giới thiệu rộng rãi trong giáo viên và học sinh những sách báo cần thiết phục vụ nhiệm vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học giáo dục, bổ sung kiến thức của các bộ môn khoa học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện.
3.  Tổ chức thu hút toàn thể giáo viên, học sinh tham gia sinh hoạt thư viện  thông qua các hoạt động phù hợp với chương trình và kế hoạch dạy học; tìm hiểu nhu cầu của giáo viên và học sinh giúp họ chọn sách, đọc sách có hệ thống.
4.  Phối hợp hoạt động với các thư viện trong ngành và các thư viện công cộng để khai thác sử dụng vốn tài liệu, trang thiết bị chuyên dùng, giúp đỡ kinh nghiệm, tổ chức hoạt động đào tạo và bồi dưỡng về nghiệp vụ; huy động các nguồn kinh phí ngoài ngân sách để tăng cường cho vốn tài liệu và hoạt động thư viện.

II. Thực trạng thư viện trường học ở Việt Nam


1. Số lượng và chất lượng của thư viện trường học

Khu vực
Tổng số
trường
Số trường
có TV
Tỉ lệ trường có TV/TS trường (%)
Số TV đạt
TC 01
Tỉ lệ TV 01/
 tổng số trường (%)
Miền Bắc
14.272
12.927
90,6
6.749
47,3
Miền Trung
3.272
2.839
86,8
1.788
54,6
Miền Nam
9.997
8.980
89,9
5.043
50,4
Toàn quốc
27.541
24.746
89,9
13.580
49,3

Năm 2009, toàn quốc có 24.541 trường học có thư viện, đạt tỉ lệ gần 90% tổng số trường học. Một hệ thống thư viện trường học đã được hình thành trong cả nước. Số lượng TVTH được tăng lên hàng năm (năm 2000 là hơn 14.000; năm 2005 là hơn 18.000 và năm 2009 là hơn 24.500). Tuy nhiên sự phát triển về TVTH chưa đồng đều ở các địa phương, có những vùng, đặc biệt là vùng núi, vùng sâu, vùng xa tình trạng trắng TVTH vẫn còn phổ biến.

Để đảm bảo chất lượng hoạt động của hệ thống TVTH, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành “Tiêu chuẩn thư viện trường học”. Bản tiêu chuẩn này đề ra những quy định cụ thể về số lượng tài liệu, cơ sở vật chất kỹ thuật, cán bộ, tổ chức và hoạt động thư viện… Hàng năm, các cơ sở giáo dục dựa trên các tiêu chuẩn này để đánh giá và xếp loại TVTH. Năm 2009, có hơn 13.500 TVTH đạt chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chiếm 49,3% tổng số trường học trong cả nước.

2. Vốn tài liệu và kinh phí đầu tư cho TVTH

Khu vực
Số trường    
Kinh phí đầu tư cho TVTH 
(tỉ đồng)
Bình quân 1 trường học
(triệu đồng)
Miền Bắc
14.272
114,6
8,03
Miền Trung
3.272
32,2
9,85
Miền Nam
9.997
56,0
5,6
Toàn quốc
27.541
202,8
7,4

Hàng năm, các TVTH Việt Nam luôn bổ sung tài liệu mới làm cơ sở cho việc phục vụ bạn đọc. Việc bổ sung tài liệu đưa vào TVTH phải theo đúng danh mục tài liệu được Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt hàng năm. Trong vốn tài liệu của mỗi TVTH đều được chia thành 3 bộ phận: Sách giáo khoa, sách nghiệp vụ giáo viên và sách tham khảo.

Ngân sách dành cho các TVTH năm 2009 là gần 203 tỉ đồng. Bình quân kinh phí dành cho mỗi TVTH là 7,4 triệu đồng. Số kinh phí này còn quá ít ỏi so với yêu cầu hoạt động hiện nay của các TVTH.

3. Đội ngũ cán bộ TVTH

Khu vực
Tình hình đội ngũ cán bộ thư viện
Bồi dưỡng
năm 2009
Tổng số
Chuyên trách
Kiêm nhiệm
Tỉ lệ chuyên trách (%)
Miền Bắc
13.807
4.706
9.101
34
4.307
Miền Trung
3.047
1.666
1.381
54,7
727
Miền Nam
9.724
6.738
2.986
69,3
2.801
Toàn quốc
26.578
13.110
13.468
49,3
7.835

Tổng số cán bộ làm việc trong các TVTH của Việt Nam hiện nay là gần 22.000 người. Trong đó, có 4.718 cán bộ chuyên trách, chiếm 22%; 78% còn lại là cán bộ kiêm nhiệm. Mỗi TVTH thường chỉ có một cán bộ.      

Về chất lượng, trình độ cán bộ còn thấp. Nhiều cán bộ chưa được đào tạo cơ bản, chỉ có một số ít có trình độ đại học và trung cấp. Hàng năm, số cán bộ thư viện đều được bồi dưỡng về nghiệp vụ chuyên môn nhưng do kiêm nhiệm nhiều công việc nên họ chưa thực sự nhiệt tình với công việc. Mặt khác, chế độ chính sách đối với họ chưa thỏa đáng, nên đa số chưa yên tâm công tác.

4. Cơ sở vật chất của TVTH

Hiện nay nhìn chung cơ sở vật chất của nhiều TVTH còn thiếu thốn, nghèo nàn.  Đa số các trường tiểu học đã sử dụng phòng học để làm thư viện. Nhiều thư viện chỉ có một phòng vừa để làm kho sách, vừa là phòng đọc cho giáo viên và học sinh. Đa số các TVTH còn hoạt động theo lối thủ công truyền thống. Việc ứng dụng máy tính còn hạn chế.

5. Hoạt động của TVTH

Đi đôi với sự phát triển của ngành giáo dục, nội dung hoạt động của các thư viện cũng không ngừng được cải tiến, ngày càng đa dạng, phong phú hơn.

-     Hình thức phục vụ ngày càng mở rộng, ngoài việc cho đọc tại chỗ, các thư viện còn cho giáo viên, học sinh mượn tài liệu về nhà. Phòng đọc tài liệu của giáo viên, học sinh đang dần được phát triển, nhu cầu đọc trong nhà trường ngày càng được nâng lên.
-    Hàng năm, các TVTH thường tổ chức các cuộc thi “Học sinh kể chuyện theo sách”. Các cuộc thi này được hàng triệu học sinh tham gia. Cứ 2 - 3 năm, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức cuộc thi “Giáo viên thư viện giỏi”. Những cuộc thi này tạo nên sự chuyển biến trong nhận thức cũng như hành động của xã hội, của ngành giáo dục đối với TVTH.

III. Một số định hướng phát triển Thư viện trường học PHỤC VỤ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC

1. Về hệ thống TVTH

Củng cố và phát triển mạng lưới TVTH cả về số lượng và chất lượng, phấn đấu đến năm 2015, tất cả các trường học đều có thư viện, trong đó 70% số thư viện đạt tiêu chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

2. Về số lượng tài liệu trong TVTH

Các địa phương tích cực huy động mọi nguồn kinh phí của nhà nước, quỹ học phí, các nguồn tài trợ, đóng góp của học sinh để mua tài liệu cho thư viện, trong đó ưu tiên đặc biệt cho các tài liệu nghiệp vụ, bồi dưỡng giáo viên và các sách tham khảo, phấn đấu đạt 5 bản sách trên một học sinh và 20 bản sách trên một giáo viên.

3. Tăng cường nguồn kinh phí cho TVTH

-    Tăng cường nguồn kinh phí của nhà nước và các nguồn kinh phí khác phục vụ cho việc xây dựng TVTH. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác TVTH, phát huy phong trào Toàn dân chăm lo công tác TVTH, huy động thêm nguồn học phí, sự hỗ trợ của các đoàn thể, các tổ chức kinh tế…
-     Thể chế hóa chế độ tài chính dành cho phát triển sự nghiệp TVTH.

4. Tăng cường cơ sở vật chất cho TVTH

-    Quan tâm đến việc đầu tư các điều kiện thiết yếu cho TVTH, đảm bảo các TVTH phải có đủ diện tích để làm kho tài liệu (30 - 40 m2), phòng đọc cho giáo viên (30 m2) và cho học sinh (40 m2), và các loại trang thiết bị khác.
-    Thường xuyên bổ sung tài liệu cho hệ thống TVTH bao gồm sách và cả băng hình, đĩa hình, đĩa CD-ROM, tranh ảnh và bản đồ giáo dục.
-    Từng bước trang bị máy tính và ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động TVTH, dần dần kết nối Internet theo chương trình phát triển công nghệ thông tin của toàn ngành giáo dục để phục vụ giáo viên và học sinh.

5. Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ thư viện đủ về số lượng và đạt yêu cầu về chất lượng

Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ TVTH có thời gian học tập phù hợp với điều kiện của từng địa phương. Mở rộng đào tạo bậc đại học, cao đẳng và trung cấp thư viện để đến năm 2015 có 30% cán bộ, giáo viên thư viện có trình độ đại học, cao đẳng./.

Hà Nội, 03/2012

L.T.C.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét