Sách và các nhà quản lý giáo dục

TS. Nguyễn Thị Từ Huy
Viện Nghiên cứu Phát triển Giáo dục IRED

Ở đây chúng tôi không bàn tới ý nghĩa và tầm quan trọng không thể phủ nhận của sách đối với sự chấn hưng giáo dục, mà suy nghĩ về việc làm thế nào để sách thực sự có tác dụng trong công cuộc chấn hưng giáo dục của chúng ta hiện nay.

Câu trả lời là: Phải đọc sách. Và phải ứng dụng những điều đọc được trong sách. Tuy nhiên, ở đây chúng tôi chỉ dừng lại ở vế thứ nhất.

Ai là những người cần phải đọc sách? Câu hỏi có vẻ ngớ ngẩn, vì dường như câu trả lời đã có sẵn: tất cả mọi người. Vậy mà thực ra không ngớ ngẩn tí nào, bởi vì ngày nay có quá ít người đọc sách, và quá ít người đọc những sách cần cho công việc của mình. Nội dung của hội thảo này bàn về vai trò của sách đối với chấn hưng giáo dục, nên tôi cũng chỉ giới hạn sự khai triển của mình ở phạm vi lĩnh vực giáo dục.

Muốn phát triển giáo dục, ai là những người cần đọc sách? Dĩ nhiên, tất cả mọi nhân tố giáo dục đều phải đọc sách: những người quản lý giáo dục, giáo viên, học sinh sinh viên, gia đình (phụ huynh học sinh).

Do chúng tôi bị giới hạn về thời gian, nên bài viết này chỉ tập trung vào nhân tố thứ nhất trong toàn bộ danh sách vừa nêu. Chúng tôi sẽ đề cập tới những tác nhân khác của giáo dục trong vấn đề đọc sách ở một dịp khác.

Vì sao các nhà quản lý giáo dục cần phải đọc sách?

Chúng tôi sẽ đi lòng vòng một chút trước khi trả lời câu hỏi.

Việt Nam hiện đang khủng hoảng trên nhiều phương diện, không ai có thể phủ nhận điều đó, nhưng bài viết này không nhằm trình bày các khủng hoảng. Để giải quyết các khủng hoảng đó, vấn đề của Việt Nam là, trong bộ máy quản lý và lãnh đạo các cấp cần có những người hiểu rằng quyền lợi của họ gắn với lợi ích của tổ quốc, của dân tộc. Cần có những người hiểu rằng sự thành công của họ phụ thuộc vào sự phát triển của đất nước, phụ thuộc vào sự thịnh vượng và hạnh phúc của toàn thể nhân dân, chứ không phải chỉ của một bộ phận nhỏ đặc quyền đặc lợi. Việt Nam ngày nay cần có những người lãnh đạo hiểu rằng hình ảnh của quốc gia chính là hình ảnh của họ, hình ảnh của nhân dân cũng chính là hình ảnh của họ. Vinh và  nhục của đất nước chính là vinh và nhục của họ.

Việt Nam cần có những người lãnh đạo ở các cấp hiểu rằng: uy tín của họ gắn với uy tín của đơn vị, của quốc gia. Và uy tín của đơn vị hay của quốc gia tuyệt đối không đồng nhất với túi tiền cá nhân. Dù cho họ có là người giàu nhất thế giới đi chăng nữa, nhưng nếu đa số nhân dân lầm than, đất nước lụn bại, thì xét về mặt chính trị và xét ở cương vị lãnh đạo, họ không thể được coi là những người thành công, mà thực chất đấy là sự thất bại thảm hại của họ trên chính trường. Họ có là những người giàu nhất thế giới nhưng người dân của họ đến củ sắn cũng không có mà ăn thì thành tựu của họ về mặt phát triển cũng chỉ được đánh giá bằng những củ sắn thiếu đó. Họ có là những người giàu nhất thế giới mà đất nước bị xếp vào hạng các nước nghèo nhất, thì họ cũng chỉ là đại diện cho một dân tộc nghèo hèn mà thôi. Và trên cương vị lãnh đạo, họ phải chịu trách nhiệm vì đã để cho quốc gia lâm vào tình trạng tồi tệ ấy. Khủng hoảng của đất nước chính là khủng hoảng của lãnh đạo, chính là biểu hiện của sự bất lực và thất bại của giới lãnh đạo trong công việc quản lý và điều hành quốc gia.

Việt Nam cần có những người lãnh đạo hiểu rằng sự thành công trong sự nghiệp chính trị, hay sự thành công trong vai trò lãnh đạo không phải ở chỗ dành được một cái ghế nào đó, mà là ở chỗ: khi ngồi trên cái ghế đó họ làm được những gì để ghi lại dấu ấn của họ, để ghi lại giá trị của họ, để giúp cho sự phát triển của khu vực mà họ điều hành. Việt Nam cần có các nhà lãnh đạo biết sử dụng quyền lực để tạo ra sự phát triển thay vì bị quyền lực điều khiển và dẫn tới kìm hãm xã hội. Chúng ta cần những nhà lãnh đạo ý thức được điều mà John F. Kennedy, một trong những người từng đứng đầu nước Mỹ, nói tới trong bài diễn văn tưởng nhớ nhà thơ Robert Frost, ở đại học Amherst, Massachusetts, ngày 27/10/1963: “liệu chúng ta sử dụng quyền lực hay quyền lực sai khiến chúng ta”. Đấy chính là lý do để vị tổng thống này đánh giá cao thơ ca và nghệ thuật. Cũng trong bài diễn văn đó ông nói: “Khi quyền lực đưa con người đến sự ngạo mạn, thơ lại nhắc nhở con người hãy nên hạn chế. Khi quyền lực thu hẹp các lĩnh vực quan tâm của con người, thơ lại nhắc nhở con người về sự đa dạng và đẹp đẽ của sinh tồn. Khi quyền lực bị mua chuộc, thơ làm cho tinh khiết”. J. Kennedy, trong tư cách là người đứng đầu đất nước, hiểu rõ rằng người lãnh đạo là người biết sử dụng quyền lực để tạo ra sức mạnh cho quốc gia, tạo ra sự vĩ đại cho quốc gia. Các thành tựu mà ngày nay Hoa Kỳ có được, một phần quan trọng là nhờ ý thức và tinh thần trên đây được tiếp nối qua các thế hệ lãnh đạo của đất nước này.

Ở tất cả các Bộ, Ngành của Việt Nam hiện nay cần có những lãnh đạo như vậy. Giáo dục không phải là ngoại lệ.

Ngoài ra, ngành giáo dục cần có những người lãnh đạo hiểu rằng: sự phát triển của giáo dục không đồng nhất với số trường lớp được mở ra, thành tích của giáo dục không đồng nhất với điểm số hay danh hiệu được cấp cho học sinh sinh viên (tiên tiến, giỏi, xuất sắc, giấy khen, bằng khen…), cũng không đồng nhất với số lượng học vị hay học hàm của giáo viên (tiến sĩ, PGS, GS…); chẳng có gì dễ ban phát hơn mấy thứ đó.

Giáo dục Việt Nam cần có những nhà lãnh đạo hiểu rằng, thành tích của nền giáo dục không phải là những khẩu hiệu suông dán trên tường hay những văn kiện có thể được học sinh học thuộc lòng như vẹt nhưng không được thực hiện trong đời sống thực. Xây dựng thành tích theo kiểu đó là một trong những nguyên nhân hủy hoại nhân tính, tàn phá năng lực trí tuệ, bởi vì nó tập cho học sinh quen với sự giả dối, biến giả dối thành một tính cách tập thể. Và đó chính là nền tảng dẫn tới mọi thói hư tật xấu khác: vô cảm, vô nhân đạo, độc ác… Sự băng hoại của xã hội là tất yếu khi mà nền giáo dục tạo ra những con người như vậy.

Giáo dục Việt Nam cần có những nhà lãnh đạo hiểu rằng, chỉ có thành tích khi thực sự đào tạo được những con người phát triển về trí tuệ, có nhân phẩm và đạo đức, mạnh mẽ trong tính cách, tự lập, tự chủ, có khả năng và kỹ năng thực hiện những công việc lao động phù hợp với năng lực của mình để tạo ra sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội, có khả năng xây dựng một xã hội phát triển trong đó mình có thể sống hạnh phúc cùng với những người khác trong sự bao dung, lòng trắc ẩn, vị tha và với ý thức hướng thiện, hướng tới cái đẹp. Thành tích của giáo dục biểu hiện ở chỗ nó đào tạo được những con người có khả năng giải quyết các vấn đề của quốc gia, và cao hơn, của nhân loại, có khả năng phát triển nền kinh tế, có khả năng tạo ra các giá trị văn hóa, giá trị tinh thần, có khả năng thiết lập một thể chế pháp luật hợp lý, đảm bảo công lý, công bằng cho tất cả mọi người, và vì thế mà đưa lại an sinh và hạnh phúc cho xã hội.

Sự khủng hoảng toàn diện của Việt Nam hiện nay phản ánh sự bất lực của giáo dục Việt Nam. Giáo dục Việt Nam cần có các nhà lãnh đạo ý thức một cách sâu sắc về điều đó, dám thừa nhận và đối diện với thực trạng, dám nhìn nhận việc thành tích bị đồng nhất với danh hiệu và điểm số thực chất là một căn bệnh hiểm nghèo cần phải chữa trị, trước khi nó kịp trở thành một khối u ác tính và di căn cho tất cả các thế hệ.

Nói cách khác, để cho nền giáo dục này không tiếp tục bị tàn phá, để cho nền giáo dục này có thể được xây dựng lại, cần có các nhà quản lý giáo dục coi giáo dục là một sự nghiệp, và hiểu rõ cần phải làm gì để gây dựng sự nghiệp đó.

Các vấn nạn hiện nay của giáo dục đòi hỏi một phong trào cải cách sâu rộng. Điều đó chỉ có thể diễn ra nếu ý thức cải cách được khởi sự từ những người quản lý, và từ những người quản lý ở cấp cao nhất trong hệ thống giáo dục, hoặc trong hệ thống lãnh đạo quốc gia. Việc đề ra và thực hiện các chương trình cải cách lại càng đòi hỏi vai trò và vị trí của các nhà lãnh đạo giáo dục. Các giáo viên đứng lớp hay các công dân trong xã hội có thể đưa ra các phân tích và các ý tưởng cũng như gợi ý về các phương pháp và cách thức, nhưng để kiến thiết thành một hay nhiều chương trình và nhân chúng lên thành diện rộng thì chỉ có các nhà lãnh đạo giáo dục mới có đủ điều kiện để làm được.

Sự hình thành ý thức và kiến thức về giáo dục và quản trị giáo dục chỉ có thể có được khi các nhà quản lý chịu học hỏi. Một trong những cách chịu học là chịu đọc sách, chịu đọc, nếu muốn nói một cách khái quát hơn.

Dĩ nhiên sách không đem lại tất cả mọi câu trả lời. Nhưng sách cho ta biết người khác đã nghĩ gì làm gì để có thể thành công, hay thậm chí thất bại. Từ đó mà suy nghĩ về chính thực tế của mình, và để có thể hành động một cách hiệu quả.
Việc đọc sách, đối với những người lãnh đạo giáo dục các cấp, càng trở nên cần thiết hơn trong bối cảnh hiện nay, khi sự tuột dốc của giáo dục để lại những hậu họa khôn lường mà có thể chúng ta chưa nhận thức được một cách đầy đủ. Tình thế toàn cầu hóa khiến cho các nước không thể tự cô lập mà còn có thể giữ được sự yên ổn. Còn một khi đã tham gia vào cục diện chung, nếu nền giáo dục không đào tạo được những con người đủ năng lực đưa đất nước tới sự hội nhập, đủ phẩm chất để chinh phục và được công nhận ở đẳng cấp quốc tế, thì sự tụt hậu rất có thể kéo theo sự lệ thuộc, kéo theo sự nô lệ dưới nhiều hình thức: nô lệ về văn hóa, về kinh tế, về chính trị… Rõ ràng, ở tình thế hiện tại, muốn cải cách giáo dục hay muốn tạo bước đột phá cho giáo dục, thì không còn có thể lãnh đạo theo quán tính, theo định kiến, theo những kinh nghiệm và thói quen đã trở nên lỗi thời hay thậm chí mang tính chất kìm hãm. Cần phải có những phương pháp khoa học và hiệu quả trong quản trị giáo dục. Những ai coi giáo dục là sự nghiệp (chứ không phải chỉ là một phương tiện để mở rộng túi tiền cá nhân) và hiểu được ý nghĩa sống còn của giáo dục đối với sự phát triển, đều thấy rằng cải cách quản lý giáo dục, thay đổi quan niệm về giáo dục, là yêu cấp bách, yêu cầu số một, nếu muốn hãm đà tuột dốc của nền giáo dục này và đưa nó ra khỏi cái vực thẳm suy thoái hiện nay.

Sẽ không phải là cường điệu khi nói rằng sự sống còn của nền giáo dục này phụ thuộc vào việc các nhà quản lý giáo dục có muốn đọc sách, có chịu bỏ thời gian đọc sách hay không, có khả năng chọn sách để đọc và xử lý được thông tin trong sách hay không; và cũng phụ thuộc vào việc hàng ngũ quản lý có chấp nhận hay không những người có năng lực lãnh đạo, chịu khó đọc sách và có khả năng biến kiến thức sách vở thành hiệu quả thực tế./.

TP. Hồ Chí Minh, 03/2012

N.T.T.H.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét