GS. Nguyễn Minh Thuyết
1. Cứ liệu
Bài viết này dựa trên kết quả phân tích một số bộ SGK nước
ngoài bao gồm 5 bộ SGK Tiếng Pháp ở
tiểu học và một số SGK Ngôn ngữ và Văn
học ở trung học của CH Pháp; bộ SGK Tiếng
Anh từ tiểu học đến hết trung học của bang Tamilnadu, CH Ấn Độ; một số SGK Tiếng Anh ở tiểu học và trung học của
Vương quốc Anh và Bắc Ailen; một số SGK Tiếng
Nga ở tiểu học và trung học của CHLB Nga;
bộ SGK Ngôn ngữ ở tiểu học của
Tổ chức Escuela Nueva (Ngôi trường Mới), Colombia và bài
viết SGK Ngữ văn của Hàn Quốc và kinh
nghiệm đối với Việt Nam
của Cho Jae Hyun và Bùi Mạnh Hùng[[1]].
2. Sự đa dạng của SGK
các nước
Cứ liệu khảo sát cho thấy tất cả các
nước mà bài viết này đề cập đều có nhiều bộ SGK. Chẳng hạn, 5 bộ
SGK Tiếng Pháp ở trường tiểu học Pháp
mà chúng tôi có trong tay là do các nhóm tác giả khác nhau biên soạn và
các nhà xuất bản (NXB) khác nhau công bố: bộ Il étail… une petite grenouille của NXB Clé International (Paris,
1986); bộ Le francais của NXB
Hachette (Paris, 1987); bộ Methode de
lecture của NXB Bordas (Paris, 1992); bộ Langue francaise của NXB Nathan (Paris, 1995); bộ La courte échelle của NXB Hatier (Paris,
1996).
Bộ sách của Ấn Độ mà chúng tôi có là bộ sách
của bang Tamilnadu dành cho học
sinh (HS) phổ thông hệ học bằng tiếng Anh (Chính quyền bang Tamilnadu xuất bản, 2010). Hệ học bằng tiếng Tamil ở bang
này có bộ SGK riêng và mỗi bang ở Ấn Độ cũng có những bộ SGK riêng.
Ở Hàn Quốc, theo Cho Jae Hyun và Bùi
Mạnh Hùng, từ năm 1995, nước này bắt đầu xóa bỏ chính sách độc quyền về SGK. Theo đó, SGK gồm 2 loại:
- Loại thứ nhất
là SGK quốc gia do Bộ Giáo dục và Phát triển nguồn nhân lực Hàn
Quốc (MOEHRD) tổ chức biên soạn, bao gồm tất cả SGK mầm non và tiểu học,
sách Quốc ngữ (Tiếng Hàn), Quốc sử (Lịch sử Hàn Quốc), Đạo đức cho các lớp còn lại.
- Loại thứ hai là SGK do các NXB tư
nhân tổ chức biên soạn, MOEHRD thẩm định, bao
gồm SGK dùng cho các môn học khác ở trung học. Ở THCS có 32 bộ sách môn Toán, 9 bộ sách môn Khoa học và
10 bộ sách môn Xã hội. Ở THPT có 28 bộ sách môn Toán (trong đó có 16 bộ
cho lớp 10 và 12 bộ cho lớp 11 và 12), 8 bộ
sách môn Hóa, 9 bộ sách môn Vật lí, 6 bộ sách môn Lịch sử Hàn Quốc hiện
đại, 8 bộ sách môn Sinh học, 8 bộ sách môn Địa lí Hàn Quốc, 8 bộ sách môn Xã
hội, 11 bộ sách môn Khoa học, v.v…
Từ năm 2009, các NXB tư nhân được phép tổ chức biên soạn và
phát hành SGK THCS và THPT kể cả các môn
Quốc ngữ, Quốc sử và Đạo đức. Tất cả SGK tiểu học sẽ do MOEHRD tổ chức biên soạn, ngoại trừ SGK môn
Thể dục, Âm nhạc, Nữ công gia chánh và Tiếng Anh dành cho các NXB tư
nhân, MOEHRD chỉ kiểm tra và sửa đổi những
chỗ cần thiết. Các trường học có thể lựa chọn một số sách không qua thẩm định của nhà nước, trừ SGK các môn
Quốc ngữ, Đạo đức, Xã hội, Toán, Khoa học, Kĩ thuật, Âm nhạc, Thể dục.
Thậm chí MOEHRD khuyến khích các trường tự biên soạn SGK để càng ngày càng có
thêm nhiều người tham gia vào việc biên soạn những cuốn sách có chất lượng cao
cho học sinh.
3. SGK Ngữ văn ở trường
tiểu học các nước
3.1. Nhìn chung, môn
học tương đương với môn Tiếng Việt ở bậc tiểu học các nước mà
chúng tôi khảo sát đều được đặt theo tên ngôn ngữ được dạy, ví dụ: Tiếng Anh,
Tiếng Pháp, Tiếng Nga. Hầu hết SGK được đặt theo tên môn học. Tuy nhiên, cũng
có một số trường hợp sách lấy những cái tên có tính nghệ thuật để hấp dẫn học
sinh, như: La courte échelle (Nâng
bước), Il étail… une petite grenouille
(Con ếch nhỏ),… Bộ SGK của Hàn Quốc lấy tên là Quốc ngữ. Còn bộ SGK của Tổ chức Escuela Nueva (Ngôi trường Mới), Colombia lấy tên là Ngôn ngữ[[2]].
3.2. Các bộ sách có số lượng sách khác
nhau. Có bộ dành cho mỗi lớp 1 quyển. Có bộ dành cho mỗi lớp vài ba quyển. Ví
dụ, bộ Il étail… une petite grenouille
cho lớp 1 của Pháp gồm 3 quyển: một quyển
dạy đọc (lecture), một quyển dạy viết (écriture), một quyển dạy hoạt
động (activités). Ở Hàn Quốc, từ lớp 1 đến lớp 3, mỗi học kì có 3 quyển: sách
dạy đọc, sách dạy viết, sách dạy nói và nghe; còn từ lớp 4 đến lớp 6, mỗi học kì chỉ có 2 cuốn: sách dạy đọc, sách dạy viết -
nói và nghe.
3.3. Về cấu trúc SGK, có thể thấy 3 loại
hình chính như sau:
3.3.1. Cấu trúc theo
trục kiến thức ngôn ngữ học
Tiêu biểu cho cấu trúc này là bộ sách Langue francaise của NXB Nathan. Mỗi
quyển trong bộ sách dành
cho một lớp, gồm một số phần (partie), mỗi phần gồm một số bài học (unit) và
mỗi bài học gồm 4 mục Ngữ pháp, Từ vựng,
Chính tả và Chia động từ; các phần và bài học đều không có tên chung. Ví dụ, sách lớp 3 có 3
phần. Phần 1 có 10 bài học. Bài học 1 gồm các mục sau:
- Ngữ pháp: Từ văn bản đến câu.
- Từ vựng: Sắp xếp các từ (theo trật
tự abc).
- Chính tả: Từ khẩu ngữ đến bút
ngữ.
- Chia động từ: Quá khứ, hiện tại,
tương lai.
Mỗi mục nói trên đều bắt đầu bằng việc phân tích một văn bản
ngắn, từ đó rút ra kết luận, rồi làm bài tập
thực hành. Chẳng hạn, để học kiến thức ngữ pháp (Từ văn bản đến câu), sách
giới thiệu mẩu chuyện Chú chó con và
nêu các yêu cầu như sau:
- Đọc văn bản.
- Văn bản trên gồm bao nhiêu đoạn?
- Mỗi đoạn cho ta biết điều gì?
- Văn bản trên gồm bao nhiêu câu?
- Mỗi câu cho ta biết điều gì?
Kết luận được đóng khung là:
“- Một văn bản
thường gồm nhiều đoạn. Khi viết, ta xuống dòng để đánh dấu mở đầu một đoạn.
- Một đoạn thường gồm nhiều câu. Mỗi
câu là một chuỗi từ được tổ chức và có một ý nghĩa. Câu mở đầu bằng một chữ hoa
và kết thúc bằng một dấu chấm.”
Sau kết luận nói trên, sách cho 6 bài tập thực hành, trong đó
có bài tập sắp xếp lại trật tự từ để tạo thành câu đúng, viết lại dấu chấm và
chữ hoa bị bỏ sót, sắp xếp lại các câu đã cho thành một đoạn, đặt câu với những
từ đã cho, viết một số câu để tả một con mèo nhỏ.
3.3.2. Cấu trúc theo
trục chủ đề của bài đọc
3.3.2.1. Bộ SGK Le francais của
Pháp
Mỗi quyển
trong bộ sách Le francais của NXB
Hachette dành cho một lớp, đều cấu tạo theo
chủ đề của bài đọc; mỗi chủ đề học trong 2 tuần (12 ngày). Cách chọn, đặt tên và sắp xếp chủ đề không gò
bó. Ví dụ, sách lớp 2 có những chủ đề sau: Chân dung, Chuột và mèo, Đáy biển, Ông bà, Những
con gấu, Mùa đông, Trò chơi và đồ
chơi, Món ăn, Giả trang, Muông thú, Mùa xuân, Chim muông, Máy móc và
người máy, Phù thủy và tiên, Nước và cát.
Tâm điểm của mỗi chủ đề là hoạt động đọc với 5 văn bản, chia
thành 2 cụm bài. Các hoạt động khác đều xoay quanh hoạt động này.
Văn bản mở đầu cụm bài thứ nhất, cũng là
văn bản khởi động chủ đề, là một câu chuyện, thường có dung lượng khá lớn. Ví dụ, văn bản mở đầu
quyển lớp 2 dài tới 2 trang A4, đếm được 440
âm tiết, gấp 2 lần bài đọc 2 tiết ở sách Tiếng
Việt lớp 2 hiện hành. Các bài đọc
tiếp theo là một văn bản thông thường và một bài thơ. Cụm bài thứ hai
gồm 2 bài đọc tăng cường nhằm hoàn thiện kĩ năng đọc cho HS.
Sau mỗi bài đọc đều có các câu hỏi tìm hiểu nội dung bài và
sau mỗi cụm bài đọc đều có các mục Ngữ pháp, Chính tả, Chia động từ, Từ vựng,
Đọc - viết (rèn kĩ năng đọc những âm dễ viết sai chính tả) và Làm văn.
Kết thúc mỗi bài học là mục Trò chơi và Ôn tập.
3.3.2.2. Bộ SGK Tiếng Anh của Ấn Độ
Cũng như bộ Le francais
của Pháp, bộ SGK của Ấn Độ cấu tạo theo chủ đề của bài đọc; cách chọn, đặt tên
và sắp xếp chủ đề không gò bó.
SGK lớp 1 có những chủ đề sau: Hãy tự ngắm em; Nhà của Ponni; Chúng mình là bạn; Selvi và Raja trên
cánh đồng; Trong vườn; Run, run, run; Trên đường; Những người giúp đỡ ta; Bên bờ biển. Từ lớp 2 đến lớp 5, sách không có tên chủ đề; các bài học (unit) được triển khai xoay quanh một
bài văn xuôi và một bài thơ, chỉ có
tên các văn bản ấy. Tuy nhiên, có thể luận ra chủ đề từ nội dung các văn bản
đọc hoặc nắm được chủ đề qua Lời nói đầu trong sách. Ví dụ, Mục lục
SGK lớp 5 ghi “Bài 1. Văn xuôi: Mẹ
Trái Đất của chúng ta; Thơ: Mong muốn
và trả lời”. Trong Lời nói đầu,
tác giả sách cho biết chủ đề của bài học này là “Giữ lấy Trái Đất và môi trường của chúng ta”.
Một đặc điểm phân biệt bộ SGK Ấn Độ với
bộ Le francais là sách có những ghi
chú hướng dẫn việc làm của GV. Có thể hiểu đây là
những quyển sách “hai trong một” - vừa là sách HS vừa là sách GV. Nhờ
vậy mà ngay từ trang đầu quyển sách lớp 1 đã có những bài hát, những câu và
đoạn văn khá dài, mặc dù HS chưa biết chữ.
Bộ SGK của Ấn Độ được xuất bản vào các
năm 2010, 2011 nên thể hiện phương pháp dạy học theo định hướng giao tiếp (phương pháp giao tiếp)
khá rõ. Sách các lớp 1, 2, 3 dạy các hiện tượng ngữ pháp như số ít, số nhiều,
danh từ, động từ, tính từ, giới từ,... thông
qua các trò chơi và bài tập. Chỉ từ sách lớp 4 trở lên mới có định nghĩa
các hiện tượng từ vựng, ngữ pháp như đồng âm, đồng hình, đại từ nhân xưng,…
Có thể lấy ví dụ về phương pháp giao tiếp
của bộ sách qua quyển SGK lớp 1. Mở đầu sách có một bài khởi động để giúp HS làm quen với hoạt
động tập thể và hoạt động học tập. Bài khởi động có những hoạt động sau:
- Em nghe, em hát: Giới thiệu văn bản Hello! Hello! Good morning. Hướng dẫn GV tổ chức cho HS đứng vòng tròn,
chào nhau và hát.
- Em tô màu: HS tô màu lên bông hoa sen
trên trang sách. Sau đó, GV tổ chức cho HS đứng vòng tròn, vỗ tay, phân biệt bên phải - bên
trái.
- Em
đọc: HS làm bài tập đánh dấu vào những hình nhất định trên trang sách theo
yêu cầu để làm quen với thao tác “đọc” và quan sát.
Bài 1 có tên là Hãy tự
ngắm em (Look at me) có những hoạt động sau:
- Nghe
đọc thơ: Giới thiệu một bài thơ đơn giản với các hình minh họa để HS biết tên một số bộ phận cơ thể như mắt, mũi,
miệng, răng, đầu, chân, ngón tay, ngón chân,…
- Chúng
em nghe, chúng em đọc: HS nghe GV đọc các từ chỉ bộ phận cơ thể đã biết kèm hình minh họa trong sách. Sau đó, GV
tổ chức cho HS đứng vòng tròn, chơi trò hỏi tên nhau.
- Em nghe, em nói: GV hỏi, HS trả lời. Ví
dụ: (Chỉ vào mũi) Đây có phải mũi không?
Phải ạ. (Chỉ vào chân) Đây có phải
mũi không? Không ạ.
- Em vẽ: HS trả lời câu hỏi Em là gái hay trai? rồi tô màu vào hình
bên dưới câu tương ứng.
Tiếp theo, HS
học cách giới thiệu về mình và người trong gia đình mình, rồi học các chữ cái a, b, c, d (nghe, đọc, viết).
Cuối cùng,
mục Em có thể (I can) giúp HS tổng
kết lại những điều đã học được thông qua các hình thức hoạt động nghe, nói,
đọc, viết. Văn bản tập đọc khép lại Bài học 1 là một câu chuyện vui với nhiều
chữ HS chưa hề biết, được “đọc với sự giúp đỡ của GV”.
Có thể nói bộ
SGK của Ấn Độ đã tiếp cận với phương pháp tổ chức hoạt động nhưng các hoạt động
về cơ bản vẫn được triển khai xoay xung quanh trục chủ đề của bài đọc.
3.3.3. Cấu trúc theo trục chủ đề của hoạt động
3.3.3.1. Bộ SGK của Hàn Quốc
Khác với loại sách cấu trúc theo chủ đề của bài đọc, các chủ
đề trong bộ SGK Hàn Quốc được đặt tên theo hoạt động. Chẳng hạn, bài đầu tiên
trong 3 cuốn SGK Quốc ngữ ở học kì 2 lớp 3 đều có tựa đề Tìm hiểu và nói cho người khác biết về sự giống nhau và khác nhau giữa các sự vật.
Theo Cho Jae Hyun và Bùi Mạnh Hùng, mỗi bài học đều có các
phần Giới thiệu, Các đơn vị của bài học, Ôn luyện, Nâng cao, Giải trí. Chẳng hạn, sách dạy kĩ năng viết bắt đầu bài 1 bằng phần Giới thiệu với 2 bức tranh ở 2 trang khác nhau. Bức tranh
thứ nhất vẽ hai người điều khiển 2 phương tiện giao thông khác nhau, một người lái xe máy và một người lái xe đạp. Phía
dưới bức tranh là câu hỏi: Xe máy và xe đạp có những điểm nào giống nhau và
khác nhau? Bức tranh thứ hai
vẽ hai đứa trẻ đang sắp xếp và phân loại nhiều đồ vật khác nhau dựa vào những
điểm giống nhau và khác nhau về chức năng, hình dáng và chất liệu. Phía trên
bức tranh là lời yêu cầu: Hãy nhận xét
những điểm giống nhau và khác nhau giữa các đồ vật và viết ngay phía dưới đây.
Tiếp theo là phần Phương
pháp quan sát với 4 hoạt động học tập:
- Hoạt động 1: HS xem hình hai đứa
trẻ với những câu đối thoại về những điểm giống nhau và khác nhau giữa xe máy
và xe đạp.
- Hoạt động 2: HS tìm ra những điểm
giống nhau và khác nhau giữa xe máy và xe đạp, sau đó điền thông tin vào bảng
tổng hợp.
- Hoạt động 3: HS viết một văn bản
ngắn trình bày những điểm giống nhau và khác nhau giữa xe máy và xe đạp.
- Hoạt động 4: HS trao đổi với nhau
để rút ra phương pháp viết một văn bản trình bày những điểm giống nhau và khác
nhau giữa các sự vật.
Phần Tôi muốn biết
là phần thực hành viết một văn bản trình bày những điểm giống nhau và khác nhau giữa các sự vật. Phần này có 5 hoạt động học tập:
1) Tìm hiểu xe buýt và xe lửa; 2) Viết
ra những điều mà HS thu nhận được; 3) Điền thông tin vào bảng tổng hợp;
4) Viết một văn bản ngắn trình bày những điểm giống nhau và khác nhau giữa xe
buýt và xe lửa; 5) Trao đổi bài viết với bạn cùng
lớp để thấy được các ưu điểm và hạn chế nhằm hoàn thiện bài viết của mình.
Phần Ôn luyện yêu
cầu HS kiểm tra lại bài viết của mình; sau đó tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau giữa quả bóng đá và
quả bóng chuyền, điền nội dung vào
bảng, viết văn bản về những điểm giống nhau và khác nhau đó và trao đổi bài
viết với bạn cùng lớp.
Phần Nâng
cao yêu cầu HS xem lại bài vừa viết; sau đó chọn một trong hai bài tập để viết một văn bản về những điểm
giống nhau và khác nhau giữa các sự vật.
Phần Giải trí có
tựa đề Ngôn ngữ của chúng ta rất giàu đẹp.
Trong phần này có một bức tranh lớn vẽ một trò chơi dân gian của trẻ em. SGK
đưa ra một số từ có liên quan đến trò chơi đó và đề nghị HS tìm những từ đồng
nghĩa. Mục đích của phần này là khuyến khích HS chú ý đến vẻ đẹp của ngôn ngữ
dân tộc.
3.3.3.2.
Bộ SGK của Colombia
Đây là bộ
SGK theo mô hình Ngôi trường Mới (Escuela
Nueva) đang thực hiện có kết quả ở Colombia.
Theo đánh giá của UNESCO, Ngôi trường Mới là mô hình giáo dục có chất
lượng tốt nhất ở nông thôn Châu Mỹ Latin. Báo cáo Phát triển con người năm 2010
của Liên hợp quốc chọn Ngôi trường Mới là một trong ba thành tựu chính của Colombia. Còn Ngân hàng Thế giới (WB) cho Ngôi
trường Mới là một trong ba cải cách đáng chú ý nhất ở các nước đang phát
triển[[3]].
Đặc điểm của mô hình Ngôi trường Mới là kiến tạo môi trường học tập thân
thiện, năng động, gắn với cộng đồng, mà ở đó thông qua
các hoạt động gần gũi với trẻ nhỏ, HS tự học và chia sẻ kinh nghiệm với
nhau để trưởng thành. Mục tiêu này được nêu
rõ trong Lời nói đầu của tài liệu Ngôn ngữ lớp 3, rất gần gũi với mục
tiêu xây dựng “nhà trường thân
thiện, HS tích cực” hiện nay ở nước ta:
“Các em HS thân mến,
Học cách chia
sẻ chính là học cách sống. Chính vì lẽ đó, tại Ngôi trường Mới
- trường học năng động, môi trường, không gian, các hoạt động thường ngày và
những gợi ý từ các hướng dẫn trong quyển sách này sẽ cho phép các em chia sẻ
những kinh nghiệm, ý tưởng, cảm nghĩ, ý kiến và cả những ước mơ, không chỉ dưới
hình thức phát biểu mà còn qua các bài viết.
Các em có thể
tổ chức một phòng học thân mật và dễ chịu giữa các thành viên trong lớp, nơi
việc học tập sẽ đồng nghĩa với giải trí, thông qua ban quản lý HS, việc làm tại
các ban khác nhau, các tổ chức của thư viện và trung tâm nguồn lực, lập ra hòm thư hướng dẫn và các bức thư thân thiện,
tham gia vào báo tường của trường và sự phát triển phù hợp tất cả các hoạt
động được đưa ra trong các hướng dẫn. Bằng cách này, các em sẽ trở nên năng
động trong quá trình học tập và có thể nhận
thấy rằng lắng nghe, phát biểu, viết và đọc sẽ phát triển trong các em tư duy phê bình và chủ động đích thực nhằm đạt
được những chuyển biến mà xã hội thế kỉ XXI yêu cầu.”[[4]]
Nói riêng về
tài liệu hướng dẫn học tập của Ngôi trường Mới thì điểm khác biệt cơ bản giữa tài liệu học tập này với SGK truyền
thống là tài liệu học tập của Ngôi trường Mới lồng ghép quy trình học và
nội dung học với nhau. Mỗi tài liệu gồm nhiều mô-đun; mỗi mô-đun do một số bài
học cấu thành; và mỗi bài học được chia thành các phần với những mục tiêu khác
nhau. Cấu trúc mỗi phần gồm:
-
Các hoạt động chính. Những hoạt động này bắt đầu bằng những kiến thức, kinh nghiệm
HS đã biết; khuyến khích các em chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm đó với bạn bè;
đưa ra những tình huống mới để giúp HS thu nhận kiến thức mới; củng cố những
điều mới học được bằng một câu chuyện hoặc trò chơi.
-
Các hoạt động thực hành. Những hoạt động này giúp trẻ củng cố kiến thức và phát
triển kĩ năng mới học được.
-
Các hoạt động ứng dụng. Đây là các hoạt động ứng dụng những điều đã học được vào việc giải quyết các tình huống nảy
sinh trong đời sống hằng ngày ở nhà và ở cộng đồng.
Sau mỗi phần,
HS được đánh giá để ghi nhận sự tiến bộ của mình.
4. SGK Ngữ văn ở trường trung học các nước
Trong phần này, chúng tôi giới thiệu bộ SGK Langue et litérature (Ngôn ngữ và văn
học) của trường THPT Pháp (lycée) và dẫn lại phần giới thiệu SGK trung học Hàn
Quốc trong bài viết của Cho Jea Hyun và Bùi Mạnh Hùng để giúp bạn đọc có một
cái nhìn tổng quát.
4.1. Bộ SGK Pháp
Bộ sách Langue et litérature
của NXB Nathan (Paris, 1992) gồm 3 quyển dành cho toàn bộ bậc THPT. Quyển 1 dạy về ngôn ngữ, các
phương pháp và hình thức giao tiếp, các loại hình và phong cách văn học.
Quyển 2 dạy văn học trung đại. Quyển 3 dạy văn học hiện đại.
Vì không có
quyển 1 của NXB Nathan nên chúng tôi sẽ thay bằng quyển Vers la maitrise du texte - 2e
(Hướng tới làm chủ văn bản, lớp đệ nhị) của NB Hachette (Paris, 1991) với nội dung tương tự. Quyển sách
gồm 4 phần: 1) Tóm tắt (văn bản);
2) Tranh
luận; 3) Bình chú; 4) Tạo lập (văn bản) tiếng Pháp. Mỗi phần
đều trình bày những kiến thức và bài tập về văn bản và ngữ pháp phục vụ
cho việc tiếp nhận và tạo lập văn bản tiếng Pháp. Ví dụ, phần Bình chú gồm 7 chương như sau: Những trọng
tâm chú ý của văn bản văn học; Phân tích các yếu tố của ngôn bản; Văn bản
văn xuôi; Văn bản thơ; Văn bản kịch; Soạn thảo đề cương; Soạn thảo bình chú.
Mỗi chương
nói trên đều có 3 mục: Bài học, Hướng dẫn
làm việc và Bài tập. Chẳng hạn, Chương Những trọng tâm chú ý của văn bản văn học có những nội dung
cụ thể như sau:
-
Bài học: Dẫn nhập về bình chú - Thực hành
bình chú. Nhạc điệu của câu. Nhịp điệu và độ vang. Cú pháp - Trật tự các thành tố trong câu. Chính tả
- Những chữ câm. Từ vựng - Sự chuyển nghĩa của từ.
-
Hướng dẫn làm việc: Phân tích nghĩa biểu
vật và nghĩa chuyển. Xác định giọng điệu
chính của văn bản. Biết đọc hình tượng. Nghiên cứu nhạc điệu, nhịp điệu
và độ vang.
-
Bài tập.
Quyển 3 trong bộ sách Langue et
litérature của NXB Nathan giới thiệu những tác giả và tác
phẩm tiêu biểu nhất của văn học hiện đại Pháp, từ thế kỷ XIX với Chateaubriand,
Lamartine, Musset, Vigny, Victor Hugo, Alexandre Dumas, Stendhal, Balzac, Baudelaire, Flaubet, Rimbeau, Verlaine, Mallarmé,...
đến thế kỷ XX với Guillaume
Apollinaire, Paul Valery, Marcel Proust, Paul Claudel, Paul Eluard,
Louis Aragon, Céline, Andre Gide, Albert Camus, Jean-Paul Sartre,... và những nhà văn còn đang sáng tác như Michel Tournier,
Patrick Modiano, J-M. G. Le Clézio, Yves
Bonnefoy, Jean-Philippe Tousaint,... Quyển sách dày ngót 550 trang, cùng với
quyển 2 tạo thành một tuyển tập tác phẩm dày đến 1000 trang. GV sẽ chọn lựa từ
2 quyển sách những tác phẩm thích hợp để dạy cho HS của mình.
Toàn bộ quyển
sách có 24 chương, mỗi chương dành cho một trường phái hoặc một nhóm tác giả có
liên quan (ví dụ, các thi sĩ lãng mạn thế kỷ XIX như Lamartine, Musset, Vigny,
Victor Hugo; các kịch tác gia lãng mạn thế kỷ XIX như Vigny, Victor Hugo; các
tiểu thuyết gia lãng mạn thế kỷ XIX như Musset, George Sand, Mérimée, Victor
Hugo, Alexandre Dumas,...).
Mở đầu mỗi
chương có phần dẫn luận về lịch sử và văn học; tiểu sử và niên biểu của nhà văn. Với mỗi tác phẩm được trích, có phần
giới thiệu về lịch sử và văn học; tóm tắt tác phẩm; giới thiệu trích
đoạn; chú giải từ khó, những tri thức lịch sử và bách khoa; những nét chủ yếu
cần ghi nhận ở tác phẩm. Cuối mỗi chương bảng tổng
kết, các quan điểm phê bình, chú giải từ khóa, những trích dẫn có ích, danh mục
vắn tắt các tài liệu tham khảo.
Tuy nhiên, như các tác giả viết trong Lời nói đầu, sách không chỉ tập
hợp các tác phẩm văn học và thông
tin mà còn là một công cụ để học sinh làm việc theo các hình thức cá
nhân và nhóm. Kèm theo mỗi văn bản được trích là bài luyện tập về phương pháp
đọc, bình chú, xác định tư tưởng tác phẩm, tóm tắt tác phẩm, phối hợp với các
bài tập về ngôn ngữ ở quyển 1 nâng cao năng lực đọc và diễn đạt cho HS.
4.2. Bộ SGK Hàn Quốc
Ở THCS, mỗi lớp có 2 cuốn SGK cho mỗi học kì, một cuốn Quốc ngữ và một cuốn Quốc ngữ trong sinh hoạt.
Nội dung cuốn
SGK Quốc ngữ gồm các phần Văn học và
Thực hành kĩ năng đọc. Nội dung cuốn SGK Quốc ngữ trong sinh hoạt gồm các phần thực hành kĩ năng nói, viết,
nghe và kiến thức về tiếng Hàn.
Trong SGK Quốc ngữ, phần Văn học có những chủ đề
chính như: Niềm hứng thú đối với văn học;
Văn học và hoạt động giao tiếp; Văn học và xã hội; Vẻ đẹp của văn học; Thế giới
thi ca; Văn học và độc giả; Vẻ đẹp của truyền thống; Văn học và cuộc sống;
Người nói trong tác phẩm văn học; Nhà văn và tác phẩm văn học; Cấu trúc của truyện; Hình thức thể hiện của văn
học; Niềm hứng thú đối với hoạt động
sáng tác văn học; Hình thức thể hiện của thơ ca; Tìm hiểu văn học hiện đại Hàn Quốc; Cá tính của tác giả; Thưởng thức
văn học truyền thống; Văn học và các những cách thức thể hiện,...
Các tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau
như thơ, đồng dao, truyện ngắn, tiểu thuyết, tự truyện, kịch,... được sử dụng
trong SGK để phục vụ cho mỗi chủ đề của bài học.
Phần rèn
luyện kĩ năng đọc có những chủ đề chính như: Đọc và viết; Ghi chép khi đọc; Thế
giới ngôn ngữ; Đọc tích cực; Suy đoán trong khi đọc; Cấu trúc của một bài luận;
Thưởng thức việc đọc sách; Đọc như thế nào; Niềm vui đọc sách và tìm kiếm trong
từ điển; Học SGK như thế nào; Tìm ra nội dung chính khi đọc; Đọc và tranh luận,
đọc bài phê bình,...
SGK Quốc ngữ trong sinh hoạt có mục tiêu đa dạng hơn. Ví dụ, bài 5
trong SGK lớp 8 dạy HS cách nghe, nói và viết
về chủ đề: cho lời khuyên và tự giới thiệu về mình. Trong phần thứ nhất, HS học cách đưa ra lời khuyên và tiếp nhận
lời khuyên. Phần này có 4 hoạt động:
- Hoạt động 1:
HS đọc một văn bản giả định là do một HS viết và kể về những tình huống mà các
em cần một lời khuyên.
- Hoạt động 2:
HS suy nghĩ về thái độ của các em khi đưa ra lời khuyên và tiếp nhận lời
khuyên. Chia vai và thực hành cho lời khuyên.
- Hoạt động 3: HS đọc một câu chuyện, từ đó đưa ra một lời khuyên thích hợp (cho người bạn hay bị trêu chọc, cho người bạn xem
TV quá nhiều, cho người bạn hay soi gương trong giờ học, v.v...)
- Hoạt động 4: HS thử lắng nghe lời khuyên của bạn bè về một vấn đề nào đó của
mình, cho biết những lời khuyên đó giúp ích gì cho bản thân.
Phần thứ 2
của bài học cũng có những hoạt động tương tự. Sau đó là phần Nâng cao nhằm ôn tập và đào sâu những vấn đề cơ bản đã học,
gồm các hoạt động như: Tự kiểm điểm lại kết quả đã học (Đã biết nghĩ đến
quan điểm của người nghe và cho lời khuyên hay chưa?; Đã biết
nghe lời khuyên bằng một thái độ nghiêm túc hay
chưa?; Đã biết tổng hợp các nội dung cần đưa vào bài tự giới thiệu hay chưa?;
Đã biết tự giới thiệu đúng với mục đích sử dụng hay chưa?); Quan sát hình vẽ và
đưa ra lời khuyên phù hợp với tình huống; Đọc một đoạn văn giới thiệu về một
người bạn và tổng hợp các đặc điểm của người được giới thiệu; Đọc một bài thơ nói về một nhân vật rơi vào hoàn cảnh cần có lời
khuyên và cho lời khuyên thích hợp; Viết tự truyện đúng với tình huống
đã cho (độ dài 205 từ).
Ở lớp 10 SGK Quốc ngữ có những chủ đề
sau: Niềm vui và sự bổ ích của việc đọc
sách; Lời nói có tổ chức; Các hình thức thể hiện đa dạng và cách hiểu, từ đúng
lời hay (chữa lỗi dùng từ, đặt câu và viết văn bản); Giao tiếp sinh động; Vẻ
đẹp của thi ca; Sức mạnh của tư duy, ngôn
ngữ và thế giới; Sự phát triển của Quốc ngữ; Tổ chức và sử dụng thông tin (hoạt động ngôn ngữ trong thời đại đa
phương tiện); Đời sống ngôn ngữ; Di
sản văn hóa dân tộc và truyền thống; Ngôn ngữ gây cảm động; Thái độ và
sự phê bình; Truyền thống và sự sáng tạo; Kiến trúc Phương Đông và đặc trưng.
Ở lớp 11 và 12, liên quan đến Tiếng Hàn và Văn học, có 6 môn
tự chọn: Văn học, Quốc ngữ
trong sinh hoạt, Đọc, Viết
luận, Nói, Ngữ pháp. Mỗi môn tự chọn như vậy có rất nhiều bộ SGK khác
nhau, cụ thể như sau: Văn học: 18, Quốc ngữ trong sinh hoạt: 11, Đọc: 9, Viết luận: 13, Nói: 4.
Riêng Ngữ pháp chỉ có một bộ SGK duy nhất vì HS ít chọn môn học này. Cũng do ít HS
chọn học nên không một nhà xuất bản tư nhân nào chịu tổ chức biên soạn
SGK Ngữ pháp, tuy tất cả SGK phần tự chọn thuộc vào loại SGK thứ hai. Vì vậy,
nhà nước phải tổ chức biên soạn cuốn này.
5. Một số kinh nghiệm
cho việc biên soạn SGK Việt Nam
5.1. Trước hết, cần
mở rộng sự tham gia của giới chuyên môn và xã hội nói chung vào
việc biên soạn SGK theo tinh thần một chương trình nhiều bộ sách và phù hợp
với điều kiện nước ta. Đối với một số môn học liên quan trực tiếp đến lĩnh vực giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức như Ngữ
văn, Lịch sử, Đạo đức / Giáo dục công dân, Bộ Giáo dục và Đào tạo giao
cho NXB Giáo dục Việt Nam tổ chức biên soạn 2 bộ SGK, một dành cho các vùng
phát triển, một dành cho những vùng và đối
tượng có khó khăn. SGK các môn còn lại, các NXB khác được quyền tổ chức biên soạn, trình Bộ Giáo dục và Đào tạo duyệt,
chọn 2 bộ sách làm SGK (một dành cho
các vùng phát triển, một dành cho những vùng và đối tượng có khó khăn) và một
số bộ khác làm sách tham khảo được phép sử dụng trong nhà trường. Sách
tham khảo do thư viện nhà trường mua bằng nguồn kinh phí cơ sở vật chất của nhà trường, đủ trang bị cho mỗi HS một bộ sử dụng
tại lớp, luân chuyển từ khóa này sang khóa khác.
5.2. Bộ SGK Ngữ văn cấp tiểu học và THCS
lấy tên là SGK Tiếng Việt, ở cấp THPT là sách Tiếng Việt và văn học.
5.3. Nội dung cụ thể của bộ SGK phụ thuộc
vào chương trình nhưng tinh thần chung là ở tiểu học và THCS tập trung vào việc
phát triển các kĩ năng giao tiếp tiếng Việt
cho HS và bước đầu giúp HS làm quen với việc tiếp nhận tác phẩm văn học.
Qua các tác phẩm văn học và văn bản khác được giới thiệu trong SGK, HS được bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, tiếp thu các giá trị
tinh thần của dân tộc, các kiến thức cần thiết cho đời sống. Ở cấp THPT,
SGK có mục tiêu nâng cao kĩ năng giao tiếp tiếng Việt, trang bị một cách có hệ
thống kiến thức văn học và kĩ năng tiếp nhận tác phẩm văn học.
5.4. SGK cần thể hiện các phương pháp dạy
học tiên tiến phát huy tính tích cực của HS.
5.5. Cùng với việc
đổi mới nội dung chương trình và phương pháp dạy học, cần thay đổi quan
niệm về sử dụng SGK, trao quyền chủ động nhiều hơn cho nhà trường và GV
để lựa chọn nội dung dạy học, lựa chọn tác phẩm văn học thích hợp, đa dạng hóa các hình thức bồi dưỡng
tri thức, rèn luyện kĩ năng và nhân cách cho học sinh. SGK cũng cần thể hiện
quan điểm sắp xếp hợp lí thời gian học trên lớp với thời gian tự học, thực
hành, dã ngoại, tăng tính linh hoạt của chương trình giáo dục mới./.
Hà Nội, 03/2012
N.M.T.
[1]
Cho Jae Hyun và Bùi Mạnh Hùng. SGK
Ngữ văn của Hàn Quốc và kinh nghiệm đối với Việt Nam.- Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống số 2 (158) / 2008,
tr. 20 - 26.
[2] Bogota, Colombia,
2009.
[3] Bộ GD&ĐT. Dự án Giáo dục
tiểu học cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Mô hình “Trường học kiểu mới” của
Colombia.
Hà Nội, 2010, tr. 13.
[4] Tổ chức
“Escuela Nueva, chúng tôi trở lại với các bạn”. Ngôn ngữ lớp 3, tập 1.,
Bogota SA, Colombia, 2009.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét